1. Mở đầu
Trong bối cảnh tốc độ đô thị hóa nhanh, mật độ dân cư cao, việc phát triển hạ tầng, chung cư, trung tâm thương mại, nhà xưởng và phương tiện cơ giới ngày càng nhiều, nguy cơ cháy nổ, sự cố, tai nạn luôn hiện hữu. Thực tiễn cho thấy, nhiều vụ cháy lớn gây thiệt hại nặng nề về người và tài sản bắt nguồn từ sự thiếu ý thức tuân thủ quy định về phòng cháy, chữa cháy (PCCC) và cứu nạn, cứu hộ (CNCH).
Để khắc phục những bất cập trong chế tài xử lý vi phạm hành chính, ngày 15/5/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 106/2025/NĐ-CP, có hiệu lực từ 01/7/2025, quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực PCCC & CNCH. Nghị định này thay thế các quy định cũ, đồng thời bổ sung nhiều điểm mới, làm rõ trách nhiệm, tăng cường tính răn đe.
Bài viết tập trung phân tích những điểm mới cần lưu ý trong Nghị định 106/2025/NĐ-CP, so sánh với các quy định trước đây, đồng thời đánh giá ý nghĩa thực tiễn của việc áp dụng nghị định này.
2. Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng
Phạm vi điều chỉnh
Nghị định quy định về:
Các hành vi vi phạm hành chính trong PCCC & CNCH;
Hình thức xử phạt và mức phạt cụ thể;
Các biện pháp khắc phục hậu quả;
Thẩm quyền xử phạt và thẩm quyền lập biên bản vi phạm.
Điểm mới là phạm vi được mở rộng không chỉ giới hạn trên lãnh thổ đất liền, mà còn bao gồm:
Vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam;
Tàu bay, tàu biển mang quốc tịch Việt Nam hoạt động ngoài lãnh thổ.(trừ trường hợp điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác).
Đối tượng áp dụng
So với Nghị định 144/2021/NĐ-CP trước đây, Nghị định 106/2025/NĐ-CP mở rộng thêm nhiều chủ thể chịu trách nhiệm, cụ thể:
Các đơn vị phụ thuộc hợp tác xã;
Các tổ chức theo Luật Thương mại;
Cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập;
Ban quản trị nhà chung cư có tư cách pháp nhân;
Các tổ chức quản lý cơ sở theo quy định pháp luật về PCCC & CNCH;
Việc mở rộng này nhằm bảo đảm mọi tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động PCCC & CNCH đều có nghĩa vụ tuân thủ và có thể bị xử lý khi vi phạm.
Ảnh minh họa (Nguồn: chinhphu.vn)
3. Thẩm quyền xử phạt
Một điểm mới nổi bật là quy định rõ và chi tiết hơn thẩm quyền xử phạt của từng cấp, từng chức danh trong lực lượng Công an nhân dân, nhằm phù hợp với Luật PCCC (sửa đổi).
Bổ sung thẩm quyền cho:
Cục trưởng Cục Cảnh sát PCCC & CNCH;
Trưởng phòng Cảnh sát PCCC & CNCH cấp tỉnh;
Các chức danh như Chủ tịch UBND các cấp, Giám đốc Công an tỉnh, Trưởng một số Phòng nghiệp vụ; Trưởng công an cấp xã… vẫn giữ thẩm quyền như trước, nhưng được quy định cụ thể về mức phạt tối đa, hình thức bổ sung có thể áp dụng.
Điểm mới này giúp tăng cường tính chủ động của lực lượng trực tiếp kiểm tra, xử lý tại cơ sở, rút ngắn thời gian xử lý vi phạm.
4. Hình thức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả
Hình thức xử phạt chính;
Cảnh cáo;
Phạt tiền.
Hình thức xử phạt bổ sung;
Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề thiết kế hoặc nghiệm thu PCCC từ 06 đến 12 tháng;
Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm;
Đình chỉ hoạt động có thời hạn đối với cơ sở vi phạm nghiêm trọng.
Biện pháp khắc phục hậu quả.
Ngoài các biện pháp chung theo Luật Xử lý vi phạm hành chính, Nghị định còn quy định rõ:
Buộc khôi phục tình trạng ban đầu;
Buộc tháo dỡ công trình, hạng mục xây dựng trái phép về PCCC;
Buộc bổ sung hệ thống, phương tiện PCCC còn thiếu;
Buộc tổ chức huấn luyện, bồi dưỡng nghiệp vụ PCCC cho lực lượng cơ sở.
Đây là điểm nhấn quan trọng vì không chỉ xử phạt về tiền, mà còn buộc cơ sở vi phạm phải khắc phục để bảo đảm an toàn.
5. Mức phạt tiền (tăng mạnh so với trước)
Mức phạt tối đa
Cá nhân: 50 triệu đồng/hành vi;
Tổ chức: 100 triệu đồng/hành vi.[1]
Một số mức phạt điển hình
Không thành lập đội PCCC cơ sở: Phạt từ 10 – 20 triệu đồng; nếu không thành lập đội chuyên ngành thì 20 – 30 triệu đồng. Đây là một sự điều chỉnh phù hợp, đặc biệt hướng vào đối tượng là các doanh nghiệp nhỏ và vừa; bởi trên thực tế, xuất phát từ nhiều lý do khác nhau như: Nhận thức về tầm quan trọng của công tác PCCC; kinh phí thành lập, duy trì lực lượng PCCC tại chỗ dẫn đến việc cố tình bỏ qua quy định này của pháp luật; qua công tác kiểm tra thực tế nhận thấy, đây là vi phạm phổ biến ở các doanh nghiệp có quy mô vừa hoặc nhỏ; nên Nghị định tăng gấp đôi mức phạt để buộc doanh nghiệp phải coi trọng giải pháp này.
Không bố trí lực lượng, phương tiện cho đội PCCC cơ sở: Phạt 8 – 10 triệu đồng. Quy định phần nào sẽ khắc phục được tình trạng “đội PCCC ảo”.
Xuất phát từ thực trạng nhiều doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, tòa nhà có thành lập đội PCCC cơ sở để đối phó với kiểm tra, nhưng thực tế không cấp phương tiện (bình chữa cháy, máy bơm, vòi chữa cháy, mặt nạ phòng độc…), , ẫn đến tình trạng “đội PCCC trên giấy” – có người nhưng không thể can thiệp khi xảy ra sự cố. Với mức phạt cũ (7–10 triệu đồng) chưa đủ răn đe, nên nhiều cơ sở chấp nhận nộp phạt thay vì đầu tư thiết bị đầy đủ. Chính vì vậy việc điều chỉnh mức phạt lên đến 20 triệu nhằm siết chặt quản lý lực lượng PCCC tại chỗ”, bảo đảm đội PCCC cơ sở có đủ cả nhân lực và phương tiện.
Không có hệ thống báo cháy, chữa cháy tự động: Phạt từ 30 – 50 triệu đồng. Quy định này x uất phát từ tầm quan trọng của hệ thống báo cháy trong tự động bảo đảm tính mạng, tài sản của công dân, tổ chức cũng như của nhà nước; với vai trò là yếu tố "cảnh báo sớm", để giảm thiểu nguy cơ ảnh hưởng đến những quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức…, vì vậy Nghị định đã tăng mức phạt đối với hành vi này lên gấp 2 lần so với Nghị định 144/2011(Phạt từ 15 – 20 triệu đồng).
Không có giải pháp phòng cháy cho khu vực sạc xe điện: Phạt từ 40 – 50 triệu đồng. Trong tiến trình đổi mới của đất nước, vấn đề phát triển kinh tế theo hướng xanh, bền vững là một xu thế tất yếu; việc chuyển đổi dần các phương tiện từ động cơ đốt trong sang động cơ điện là một đòi hỏi mang tính cấp bách. Trong khi đó hạ tầng để phục vụ cho việc sạc các phương tiện điện hiện nay còn chưa bảo đảm quy định về PCCC, nguy cơ xảy ra cháy, nổ tại những khu vực này là rất cao. Do đó, việc quy định mức phạt đối với hành vi này không chỉ thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đến vấn đề an toàn mới phát sinh mà còn góp phần nâng cao ý thức, trách nhiệm của chủ đầu tư và đơn vị quản lý, cũng như bảo đảm tính răn đe, phòng ngừa vi phạm, bảo vệ tính mạng, tài sản, an toàn xã hội và tạo hành lang pháp lý cho sự phát triển an toàn, lâu dài của hạ tầng xe điện, tránh tình trạng “tăng trưởng nóng” nhưng tiềm ẩn rủi ro.
Không niêm yết nội quy, biển báo PCCC: Phạt từ 6 – 8 triệu đồng. Quy định này có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao tính công khai, minh bạch về an toàn phòng cháy. Nội quy và biển báo PCCC giúp mọi người trong khu vực dễ dàng nắm bắt quy định, nhận diện vị trí thiết bị chữa cháy, lối thoát hiểm và cách xử lý tình huống khẩn cấp. Đây là hình thức tuyên truyền trực tiếp, tạo sự nhắc nhở thường xuyên, góp phần nâng cao ý thức phòng cháy tại chỗ. Mức phạt từ 6 – 8 triệu đồng mang tính răn đe, buộc chủ cơ sở phải thực hiện nghiêm túc trách nhiệm của mình, tránh tình trạng đối phó hoặc xem nhẹ. Việc niêm yết đầy đủ cũng giúp hạn chế tình trạng hoang mang, lúng túng khi có sự cố xảy ra, giảm thiểu thương vong và thiệt hại tài sản. Quy định này đồng thời tạo sự thống nhất trong công tác quản lý PCCC giữa các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và khu dân cư. Nó thể hiện rõ quan điểm của Nhà nước coi trọng cả những chi tiết nhỏ nhưng thiết yếu trong bảo đảm an toàn. Thông qua đó, người lao động, khách hàng và cộng đồng luôn được đặt trong trạng thái an toàn chủ động. Quy định này cũng góp phần hình thành thói quen tuân thủ kỷ luật PCCC trong xã hội. Như vậy, ý nghĩa cốt lõi là xây dựng môi trường làm việc và sinh hoạt an toàn, đồng bộ, có trách nhiệm và phòng ngừa rủi ro ngay từ những bước căn bản nhất.
Nguyên tắc nhân đôi
Trường hợp để xảy ra cháy, nổ gây thiệt hại nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, mức phạt có thể tăng gấp đôi.
Ví dụ: Một chung cư không có hệ thống báo cháy, mức phạt bình thường 30 – 50 triệu. Nếu chính vi phạm này dẫn tới cháy, mức phạt có thể lên đến 100 triệu đồng đối với ban quản trị.
Quy định về nguyên tắc nhân đôi trong xử phạt vi phạm hành chính về PCCC có ý nghĩa răn đe mạnh mẽ, buộc tổ chức, cá nhân không tái phạm hoặc kéo dài hành vi vi phạm. Cơ chế nhân đôi mức phạt thể hiện thái độ nghiêm khắc của Nhà nước đối với những vi phạm cố ý, có tính chất nguy hiểm cao. Điều này khắc phục hạn chế của mức phạt cơ bản chưa đủ sức răn đe trong một số trường hợp đặc biệt. Nguyên tắc nhân đôi còn góp phần nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật, giúp chủ cơ sở nhận thức rõ hậu quả pháp lý khi coi thường quy định PCCC. Bên cạnh đó, nó tạo sự công bằng trong xử lý, vì người tái phạm hoặc vi phạm nghiêm trọng cần phải chịu trách nhiệm pháp lý nặng hơn người vi phạm lần đầu. Đây cũng là biện pháp phòng ngừa hiệu quả, hạn chế tái diễn hành vi gây nguy cơ cháy nổ. Nguyên tắc nhân đôi còn cho thấy tính linh hoạt của pháp luật, vừa bảo đảm tính nghiêm minh, vừa phù hợp với nhiều tình huống phát sinh trong thực tiễn. Việc áp dụng cơ chế này giúp bảo vệ tốt hơn tính mạng, tài sản của nhân dân và an toàn xã hội. Đồng thời, nó khuyến khích các tổ chức, cá nhân chủ động phòng ngừa, đầu tư đúng mức cho công tác PCCC. Như vậy, nguyên tắc nhân đôi không chỉ là biện pháp lý xử lý vi phạm mà còn mang ý nghĩa giáo dục, phòng ngừa, nâng cao trách nhiệm cộng đồng đối với công tác PCCC.
6. Thời hiệu xử phạt và hiệu lực thi hành
Thời hiệu xử phạt: 01 năm kể từ ngày hành vi vi phạm được thực hiện. Nếu hành vi vi phạm được phát hiện bằng thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ (camera, cảm biến…), thời hiệu tính từ ngày thiết bị ghi nhận.
Hiệu lực thi hành: Nghị định 106/2025/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 01/7/2025. Đồng thời:
Bãi bỏ các quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực PCCC tại Nghị định 144/2021/NĐ-CP.
Các vụ việc xảy ra trước ngày 01/7/2025 nhưng chưa xử lý xong sẽ áp dụng nghị định cũ; còn hành vi kéo dài sau thời điểm này thì áp dụng nghị định mới.
7. Ý nghĩa và khuyến nghị
Thứ nhất: Nghị định góp phần tăng cường tính răn đe khi mức xử phạt được điều chỉnh tăng cao, có hành vi tăng gấp đôi so với trước đây. Điều này buộc các cơ sở, doanh nghiệp, hộ gia đình phải cân nhắc kỹ lưỡng và chủ động tuân thủ, thay vì chấp nhận vi phạm để “nộp phạt cho xong”.
Thứ hai: Nghị định siết chặt trách nhiệm bằng cách mở rộng đối tượng áp dụng, không chỉ dừng ở cá nhân, doanh nghiệp mà còn bao gồm cả ban quản trị nhà chung cư, cơ quan nhà nước, tổ chức thương mại, đơn vị sự nghiệp. Việc này khắc phục khoảng trống pháp lý trước đây, bảo đảm mọi chủ thể liên quan đến hoạt động PCCC & CNCH đều có nghĩa vụ thực hiện và có thể bị xử lý khi vi phạm.
Thứ ba; Nghị định hướng tới phòng ngừa là chính, khi bổ sung các biện pháp khắc phục hậu quả mang tính bắt buộc, buộc cơ sở vi phạm phải khôi phục, bổ sung phương tiện, huấn luyện lực lượng, chứ không chỉ dừng lại ở xử phạt tiền. Điều này giúp bảo đảm tính an toàn lâu dài, ngăn chặn nguy cơ tái diễn vi phạm.
Từ đó, có thể đưa ra một số khuyến nghị cụ thể:
Các cơ sở sản xuất, kinh doanh, đơn vị quản lý công trình công cộng cần rà soát toàn bộ hệ thống PCCC hiện có, đảm bảo đáp ứng tiêu chuẩn, quy chuẩn mới.
Thành lập và củng cố đội PCCC cơ sở, tổ chức tập huấn, diễn tập định kỳ để nâng cao kỹ năng ứng phó.
Lập và cập nhật hồ sơ quản lý PCCC, niêm yết đầy đủ nội quy, quy trình xử lý sự cố để mọi người dễ tiếp cận và thực hiện.
Tăng cường kiểm tra, bảo dưỡng hệ thống báo cháy, chữa cháy, đặc biệt chú ý những khu vực tiềm ẩn nguy cơ cao như bãi giữ xe, khu sạc pin xe điện, kho hàng dễ cháy nổ.
Các hộ gia đình cần nâng cao ý thức, chủ động trang bị bình chữa cháy, thiết bị báo khói và tuân thủ nghiêm ngặt quy định về an toàn điện, gas, pin sạc.
Như vậy, nghị định không chỉ nhằm xử phạt, mà còn định hướng xây dựng một môi trường sống, làm việc an toàn, chủ động phòng ngừa, góp phần giảm thiểu thiệt hại và bảo vệ sự phát triển bền vững của xã hội.
8. Kết luận
Nghị định 106/2025/NĐ-CP là văn bản pháp lý có ý nghĩa quan trọng, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ. Với các điểm mới như mức phạt được điều chỉnh tăng cao, phạm vi và đối tượng áp dụng được mở rộng, thẩm quyền xử phạt được quy định rõ ràng hơn cùng các biện pháp khắc phục hậu quả chặt chẽ, nghị định này không chỉ tăng cường tính răn đe mà còn tạo hành lang pháp lý vững chắc cho công tác PCCC & CNCH trong tình hình mới. Những quy định mới sẽ thúc đẩy ý thức chấp hành pháp luật, hạn chế vi phạm, giảm thiểu nguy cơ cháy nổ, bảo vệ tính mạng, sức khỏe con người và tài sản của Nhà nước, tổ chức, cá nhân.
Bên cạnh đó, nghị định còn khẳng định vai trò quan trọng của việc phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức, lực lượng chức năng và toàn dân trong công tác PCCC & CNCH. Đặc biệt, lực lượng Công an cơ sở cần nắm vững và triển khai nghiêm túc để phát huy tốt vai trò nòng cốt, đồng thời các cơ quan, doanh nghiệp, hộ gia đình và từng cá nhân cũng cần chủ động nâng cao nhận thức, thực hiện đầy đủ trách nhiệm, coi công tác phòng ngừa là giải pháp hàng đầu.
Việc thực thi hiệu quả Nghị định 106/2025/NĐ-CP sẽ tạo nền tảng xây dựng một môi trường sống và làm việc an toàn, ổn định, hướng tới sự phát triển bền vững, trong đó an ninh, an toàn con người và xã hội luôn được đặt ở vị trí trung tâm. Đây không chỉ là trách nhiệm của riêng cơ quan quản lý mà còn là nhiệm vụ chung của toàn xã hội trong quá trình phát triển hiện đại, văn minh và hội nhập.
Phụ lục
Bảng tham chiếu một số thay đổi cơ bản về mức xử phạt của Nghị định 106/2025 so với mức xử phạt theo Nghị đinh 144/2021
Hành vi vi phạm |
Mức phạt theo NĐ 144/2021 |
Mức phạt theo NĐ 106/2025 |
Điểm mới |
---|---|---|---|
Mức phạt tối đa với cá nhân |
40 triệu đồng |
50 triệu đồng |
Tăng 10 triệu |
Mức phạt tối đa với tổ chức |
80 triệu đồng |
100 triệu đồng |
Tăng 20 triệu |
Không niêm yết nội quy, biển báo PCCC |
2 – 5 triệu |
6 – 8 triệu |
Tăng mạnh, gấp 2–3 lần |
Không thành lập đội PCCC cơ sở |
5 – 10 triệu |
10 – 20 triệu |
Tăng gấp đôi |
Không thành lập đội PCCC chuyên ngành |
10 – 15 triệu |
20 – 30 triệu |
Tăng gấp đôi |
Không bố trí lực lượng, phương tiện PCCC cho đội cơ sở |
4 – 6 triệu |
8 – 10 triệu |
Tăng gần gấp đôi |
Không trang bị phương tiện chữa cháy cho đội cơ sở |
7 – 10 triệu |
15 – 20 triệu |
Tăng gấp đôi |
Không trang bị hệ thống báo cháy, chữa cháy tự động theo quy định |
15 – 25 triệu |
30 – 50 triệu |
Tăng gấp đôi |
Không có giải pháp phòng cháy cho khu vực sạc pin xe điện |
Chưa có quy định |
40 – 50 triệu |
Quy định mới |
Để xảy ra cháy do vi phạm quy định nhưng chưa đến mức truy cứu hình sự |
Phạt theo mức vi phạm gốc |
Phạt gấp đôi mức vi phạm gốc |
Quy định tăng nặng mới |
TS, Thượng tá Đinh Phan Quỳnh
Khoa Luật
[1] Trước đây theo Nghị định 144/2021/NĐ-CP là 40 triệu đối với cá nhân và 80 triệu đối với tổ chức.
- Các hành vi bị nghiêm cấm trong phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ (08.09.2025)
- Công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên và được đẩy mạnh (05.09.2025)
- Giám sát việc thực hiện Quyết định cấm tiếp xúc theo quy định tại điểm a khoản 6 Điều 49 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình (04.09.2025)
- Niềm tự hào của dân tộc Việt Nam (27.08.2025)
- Trách nhiệm giám sát việc thực hiện Quyết định cấm tiếp xúc theo quy định của Luật Phòng, chống bạo lực gia đình (22.08.2025)
- Nội dung, hình thức giám sát việc thực hiện quyết định cấm tiếp xúc theo quy định của Luật Phòng, chống bạo lực gia đình (22.08.2025)
- Khuyến cáo phòng, chống bệnh Chikungunya (21.08.2025)
- Giá trị lịch sử của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 (21.08.2025)
- Tìm hiểu những điểm mới của Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Doanh nghiệp năm 2025 (21.08.2025)